Trong những ngày qua, dư luận xã hội, nông dân và các cơ quan chuyên môn, cơ quan chức năng, các nhà khoa học rất quan tâm đến các thông tin về tính chất độc hại của một số sản phẩm phân bón lá có chứa chất Nitro Benzen, có khả năng gây ung thư cho người. Theo phát biểu của Ông Nguyễn Hữu Huân, Phó Cục trưởng Cục BVTV: trong các nhóm hóa chất khuyến cáo của Tổ chức Y tế thế giới WHO, hóa chất nào thuộc nhóm 1 là nhóm độc cấm sử dụng, những hóa chất thuộc nhóm 2A khi sử dụng có khả năng gây hại nhưng chưa phổ biến. Nhóm 2B có thể có khả năng tiền chất gây ung thư (nhưng chưa có thông tin). Nhóm 3 không độc nhưng chưa phổ biến và nhóm 4 hoàn toàn không độc. Riêng chất Nitro Benzen thuộc nhóm 2B. Như vậy, khả năng gây độc hay an toàn của hóa chất này vẫn còn bỏ ngõ trong thực tế sử dụng nhiều năm qua. Nhiều ý kiến cho rằng cần phải có cơ sở khoa học để chứng minh về tính độc hại của Nitro Benzen đối với sức khỏe của người dân, cũng có ý kiến cho rằng cần tổng hợp các kết quả nghiên cứu ở các nước đã sử dụng hóa chất này lâu dài như ở tại Mỹ có 6 nhà máy lớn năm 1986 sản xuất 240.000 tấn; tại Trung Quốc có 13 nhà máy năm 2009 sản lượng đạt 290.000 tấn để cảnh báo cho việc sử dụng tại Việt Nam.
Ngày 4 tháng 2 năm 2010, Bộ NN & PTNT tổ chức Hội đồng Khoa học gồm 26 nhà khoa học để xem xét và tư vấn cho Bộ có các kết luận chuẩn xác và phù hợp với các văn bản nhà nước hiện hành đối với các sản phẩm phân bón lá có chứa Nitro Benzen. Tuy nhiên, các thông tin báo chí về Nitro Benzen đã tạo dư luận xã hội quan tâm đặc biệt đến vấn đề này, trong một ý nghĩa tích cực thì sự cảnh báo trên là điều cần thiết trong xu thế hội nhập kinh tế thế giới, nông sản Việt Nam có nhiều triển vọng xuất khẩu, nhiều khả năng gia tăng được kim ngạch xuất khẩu nông sản thông qua việc gia tăng sản lượng và chất lượng, có thể tránh cho nông sản Việt Nam bị từ chối vì tính chất an toàn của sản xuất. Mặt khác, sức khỏe của người sản xuất là vấn đề hết sức quan trọng được Đảng và nhà nước đặc biệt quan tâm thông qua các chủ trương, chính sách về an toàn lao động, an toàn cho người sản xuất, vệ sinh an toàn thực phẩm, bền vững môi trường, an sinh xã hội… được các cơ quan chuyên môn cụ thể hóa bằng các chiến lược phát triển sản xuất, phát triển cây trồng vừa gia tăng sản lượng, chất lượng nhưng luôn phải đảm bảo an toàn cho người sản xuất, người tiêu dùng. Các chương trình, dự án sản xuất theo GAP trong nhiều năm qua trên nhiều loại cây trồng, nhiều vùng sản xuất và các kết quả được chứng nhận của các tổ chức trong nước và quốc tế là một minh chứng cho sự kiên trì và quyết tâm của ngành chuyên môn và toàn xã hội đối với vệ sinh an toàn thực phẩm theo chủ trương, chính sách chung của Đảng và nhà nước. Nhìn toàn cục về sản xuất nông nghiệp để thấy rằng hiệu ứng đối với sự lo ngại của sản phẩm phân bón có chứa chất Nitro Benzen là hoàn toàn hợp lý và cũng là nguyện vọng chung của toàn xã hội không phân biệt là nhà quản lý, người sản xuất, doanh nghiệp, nhà khoa học hay nông dân. Tính tích cực của sự cảnh báo này thể hiện sự quan tâm đến nông dân và người tiêu dùng. Trong đó, nông dân – người trực tiếp sản xuất – có thể chịu những tác động tiêu cực – nếu có – của việc sử dụng sản phẩm có chứa Nitro Benzen. Chúng tôi hoàn toàn ủng hộ sự cảnh báo này không chỉ với các sản phẩm có chứa Nitro Benzen mà với nhiều loại sản phẩm khác có khả năng gây độc hại cho người, không chỉ là phân bón mà có thể là thuốc BVTV, chất kích thích sinh trưởng, thuốc trừ cỏ và cũng không chỉ trong lĩnh vực trồng trọt mà có thể trong chăn nuôi, thủy sản, xây dựng, công nghiệp, y tế, thực phẩm tiêu dùng… hoặc các lĩnh vực khác có tác động trực tiếp hoặc gián tiếp.
Trở lại phân bón có chứa Nitro Benzen, hiệu ứng tích cực là nghi ngờ sự an toàn của sản phẩm đối với người sản xuất, sử dụng và tiêu dùng sản phẩm. Trong khi chờ đợi kết luận của các nhà khoa học Việt Nam, chúng tôi nghỉ chúng ta cần cẩn trọng với các thông tin có những tác động khác:
(i) Đưa sự việc nêu trên như là một sự “lừa dối”, “che dấu”, “vô cảm”… như một số cách nhìn nhận vấn đề của các bài báo gần đây, làm cho sự việc không còn là sự quan tâm đến sức khỏe người dân mà gần như định hình thành sự phê phán tính minh bạch của việc thực thi các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành, sự phê phán cách suy nghỉ, tư duy khách quan của các cá nhân, đại diện cơ quan chuyên môn bằng một suy nghỉ độc lập của các cá nhân khác, trong khi vấn đề vẫn đang cần được một tập thể các nhà khoa học cẩn trọng xem xét và tư vấn.
(ii) Cần thiết đặt vấn đề sản phẩm có chứa Nitro Benzen trong tổng thể phát triển nông nghiệp và xuất khẩu nông sản Việt Nam. Chúng tôi không cho rằng vấn đề báo chí vừa qua đã nêu là nhỏ, vì đối với sức khỏe đồng bào dù chỉ là một người bị ảnh hưởng cũng là vấn đề cần được quan tâm của toàn xã hội, chúng ta đã từng thấm thía với nỗi đau buồn về di chứng của chất độc màu da cam với hàng vạn đồng bào, chúng ta đã từng quyết tâm biết bao nhiêu trong việc huấn luyện, khuyến cáo, hướng dẫn hàng triệu nông dân cả nước thực hiện chương trình IPM mà mục tiêu trước hết là hạn chế việc sử dụng thuốc BVTV, chúng ta đã và đang nỗ lực tối đa đẩy nhanh tiến bộ kỹ thuật ba giảm ba tăng, 1 phải 5 giảm, chương trình GAP, phấn đấu có các mô hình GlobalGAP, VietGAP cho từng loại cây trồng, cho từng vùng sản xuất… mà mục tiêu cuối cùng là Vệ sinh an toàn thực phẩm, giữ được sức khỏe người sản xuất, người tiêu dùng và bền vững về môi trường. Tiến trình này đòi hỏi nhiều quyết tâm, nhiều phấn đấu và cần được sự ũng hộ, động viên, cùng thực hiện của toàn xã hội.
(iii) Nông nghiệp, nông thôn và nông dân đã và đang được sự quan tâm đặc biệt của Đảng, nhà nước Việt Nam và của các tổ chức Quốc Tế, Sự quan tâm nào cũng mong muốn mang lại sự thịnh vượng, phồn vinh cho khu vực kinh tế trọng điểm và có ý nghĩa đối với quốc gia đang phát triển như nước ta. Định hướng tích cực của các vấn đề xã hội sẽ thúc đẫy tiến trình này phát triển nhanh hơn và có ý nghĩa hơn, sự tiêu cực sẽ trì hoãn một vài khâu trong tiến trình đi lên và đôi khi là quà tặng cho sự trì hoãn hoặc các chủ thể muốn trì hoãn tiến trình này.
(iv) Nông dân, trước hết là chủ thể trực tiếp ảnh hưởng từ các chủ trương, chính sách của Đảng và nhà nước đối với nông nghiệp, nông thôn và nông dân và có tác động trở lại với các chủ trương chính sách đó. Sự nhận thức của nông dân một phần được bắt nguồn từ các thông tin, tuyên truyền từ các phương tiện truyền thông, các cơ quan chuyên môn, các nhà khoa học, nhà quản lý, doanh nghiệp, cán bộ, cá nhân có tâm huyết với sự phát triển chung theo đúng những định hướng đã được hoạch định. Sự đồng thuận của xã hội (bao gồm cả phản biện tích cực – minh bạch) sẽ là một động lực tốt trong việc phát triển, ngược lại sẽ làm cho sự trì trệ thậm chí là nguy cơ, ảnh hưởng đến tiến trình phát triển chung.
Chúng tôi không hàm ý tranh luận, chúng tôi chỉ mong mõi trên cơ sở lợi ích chung, trước hết là nông dân, rộng hơn nữa là sự phát triển của nông nghiệp đất nước ta trong giai đoạn hiện nay.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét