NỖI LO CỦA BÀ CON NÔNG DÂN KHI THỰC
HIỆN VIETGAP
Lê Thanh Tùng[1]
Trong
quá trình tiếp xúc và trao đổi với bà con nông dân khi trình bày việc thực hiện
quy trình sản xuất cây trồng theo VietGAP, câu hỏi đặt ra trước hết là: Thực
hiện theo VietGAP có khó khăn như thế nào? giá thành sản xuất có tăng hơn không
và có ai mua cao giá hơn không? Nhà nước có đầu tư gì không? Cần có hợp đồng
bao tiêu sản phẩm cho những người thực hiện theo VietGAP…
Đây
là những câu hỏi hoàn toàn chính đáng, phù hợp với những bức xúc và nỗi lo lắng
của những người sản xuất nông sản hàng hóa trước đây và ngay trong thời điểm
hiện nay. Nông dân nói chung, sản xuất ra nông sản hàng hóa có thể mang lại lợi
nhuận cao trong một vài vụ hoặc một vài năm sản xuất nhưng không ổn định và khả
năng tích lũy, tái đầu tư cho sản xuất còn thấp, sự tính toán và sắp xếp kế
hoạch sản xuất còn bị hạn chế do trình độ học vấn, trình độ hoặc nhận thức về
kinh tế thị trường, nguồn tài chính và nhân lực thiếu thốn nghiêm trọng… Trong
khi đó, những sự hỗ trợ của các cơ quan, đơn vị chuyên môn, của các doanh
nghiệp vẫn còn cách xa với nhu cầu và mong muốn của người dân. Hiện nay, khi
nguồn nhân lực chuyên môn của các cơ quan nhà nước cũng còn thiếu, và sự hỗ trợ
cũng dừng lại ở việc cung cấp cho kiến thức chung, cho “cần câu” để người sản
xuất tự câu…. Nói chung, mong muốn và nhu cầu của nông dân là vô hạn và sự đáp
ứng là có giới hạn.
Trước
thực tế nêu trên, câu trả lời cho nông dân thường không mang tính thuyết phục,
nông dân chưa thật sự thấy thỏa mãn và yên tâm khi tiến hành thực hiện theo sự
khuyến cáo của cơ quan chuyên môn, mặt khác cũng còn một bộ phận nông dân ỷ
lại, nghĩ rằng chương trình phát động của nhà nước thì nhà nước phải chăm lo
cho người dân để thực hiện sự phát triển chung, đây là một bài toán khó cần có
những đáp án linh động và phù hợp với thực tế của từng nơi, mang tính thuyết
phục và có lợi ích thiết thực cho người dân. Cần có sự đồng tâm, hiệp lực của
rất nhiều bộ phận và nhiều cơ quan chuyên môn, cơ quan đoàn thể, chính quyền và
quan trọng là bà con nông dân.
Về
những khó khăn khi thực hiện VietGAP: nếu được giải thích và trình bày một cách
chi tiết các yêu cầu cụ thể thì sản xuất theo VietGAP hoàn toàn không có gì khó
khăn, không khác với cách sản xuất lâu nay của bà con nông dân, sự khác nhau là
quy trình sản xuất được đồng bộ hóa cho phù hợp với vùng sản xuất, cần phải ghi
chép lại quá trình sản xuất vào sổ tay, có sự kiểm tra, giám sát, nhắc nhỡ theo
quy trình chung và thực hiện một vài tiêu chí bắt buộc để đảm bảo vệ sinh an
toàn thực phẩm và đảm bảo sức khỏe cho người sản xuất, cho môi trường, điều này
khi được giải thích, trao đổi thì đa số bà con nông dân đều cho rằng có thể
thực hiện được, có thể cải thiện tập quán canh tác lâu nay.
Về
giá thành sản xuất theo VietGAP: Lâu nay, bà con nông dân khi tiếp cận một tiến
bộ kỹ thuật nông nghiệp mới đều có suy nghĩ là sẽ tốn kém hơn, nào là phải mua
thêm dụng cụ, máy móc, phải sử dụng những công cụ, thiết bị đạt yêu cầu kỹ
thuật, phải sử dụng vật tư nông nghiệp có chất lượng, hiệu quả, giống cây trồng
theo tiêu chuẩn… tính toán ban đầu làm cho nông dân thấy chi phí đầu tư cao
hơn, tuy nhiên năng suất, chất lượng và lợi nhuận sau cùng là những điều mà
phải đến lúc thu hoạch và bán sản phẩm thì mới thấy được do vậy tâm lý ban đầu
là ngán ngại, khi tiến hành phổ biến chương trình VietGAP và xây dựng mô hình,
sau đó có hội thảo thì bà con nông dân mới nhìn thấy được hiệu quả, đây cũng là
việc bình thường, vì sản lượng thu hoạch của mùa vụ ảnh hưởng rất lớn đến cuộc
sống của nông dân họ chưa dám mạo hiểm khi chưa thấy được hiệu quả thiết thực.
Điều này không khó khi triển khai và khuyền cáo người dân, chỉ cần chú tâm đến
mô hình và vận hành có hiệu quả thì người dân sẽ thấy được. Trong quá trình triển
khai mô hình sản xuất theo hướng VietGAP tại các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long
dù chỉ mới là sổ tay ghi chép sản xuất lúa nhưng bà con nông dân đã thấy được
hiệu quả thiết thực khi tổng kết chí phí có những hộ đã tiết kiệm được rất
nhiều những tốn kém không cần thiết, và khi tính toán giá thành cho từng hộ
nông dân họ thấy rằng sản xuất theo những quy trình khuyến cáo đã thật sự tiết
kiệm và giảm giá thành sản phẩm.
Vấn
đề còn lại là ai mua, mua giá thế nào và có hợp đồng bao tiêu sản phẩm không?
Phải nhìn nhận một cách thực tế rằng có nhiều doanh nghiệp nhạy bén với việc
theo dõi tiến trình thực hiện sản xuất nông nghiệp theo GAP, VietGAP tại Việt
Nam và tích cực tham gia từ khâu đầu tư, bao tiêu sản phẩm với giá có lợi cho
nông dân, thông thường cao hơn sản phẩm cùng loại khoảng 20%. Tuy nhiên số
lượng doanh nghiệp như trên cũng còn rất ít. Điều này cho thấy tính nhất thời
và chưa có sự chú tâm xây dựng thương hiệu doanh nghiệp, thương hiệu nông sản
của các doanh nghiệp. Xu hướng sản xuất và sử dụng nông sản an toàn vệ sinh
thực phẩm là của toàn thế giới và là xu hướng tất yếu trong việc nâng cao giá
trị nông sản, với quốc gia mà giá trị xuất khẩu nông sản hàng năm khoảng 26 tỉ
USD như Việt Nam thì vấn đề này cần phải được quan tâm nhiều hơn, chưa kể chúng
ta có một thị trường nội địa cho gần 90 triệu dân. Việc tiêu thụ nông sản sản
xuất theo VietGAP không phải là vấn đề quá khó đối với doanh nghiệp khi không
phải tốn kém quá nhiều chi phí, khi vùng nguyên liệu đã được hình thành, thương
hiệu và chất lượng nông sản do người sản xuất làm ra thì việc thu mua chế biến
và tiếp thị sản phẩm an toàn này là không quá khó với một doanh nghiệp tiêu thụ
nông sản, vấn đề là chúng ta cần phải kết hợp với nhau ngay từ đầu, doanh
nghiệp lên tiếng bao tiêu và cùng với nông dân sản xuất tiêu thụ tốt hàng hóa
theo VietGAP thì sự ổn định sản xuất sẽ được giữ vững và lợi nhuận từ các phía
sẽ được nâng lên.
Bà
con nông dân cũng cần phải nhận thức được rằng muốn nâng cao giá trị và lợi
nhuận thì phải tiến hành sản xuất ra hàng hóa nông sản vệ sinh an toàn thực
phẩm và con đường đi đến đó là sản xuất theo VietGAP có như vậy thì mới cải
thiện được đời sống và thu nhập ổn định lâu dài.
Mỗi
nông dân một sổ tay ghi chép sản xuất, mỗi cánh đồng, khu vườn phải sản xuất
theo VietGAP, kết hợp lại thành từng vùng nguyên liệu từ nhỏ đến lớn thị trong
nhiều năm tới mới có hy vọng nâng cao giá trị nông sản của nông dân trong nước
và nước ngoài./.
[1] Thạc sĩ
– Phó phòng Cây Lương thực – Cây Thực phẩm – Cục Trồng trọt – Bộ Nông nghiệp
và Phát triển nông thôn
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét