Thứ Tư, 15 tháng 5, 2013

TỔ CHỨC LẠI SẢN XUẤT – YÊU CẦU BỨC THIẾT Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG

Giáo sư Bùi Chí Bửu viết bài này và nhận định:
Chúng ta phải tổ chức lại sản xuất theo hướng hợp tác hóa mới có thể phát triển nông nghiệp theo chiều sâu, có qui mô sản xuất lớn, bao gồm cả khâu tồn trữ, chế biến, lưu thông, mở thêm ngành nghề khác trong nông thôn. Mô hình cánh đồng mẫu lớn đang phát huy những giá trị bước đầu của nó, cần có chính sách nhà nước hỗ trợ thích đáng.



TỔ CHỨC LẠI SẢN XUẤT –
YÊU CẦU BỨC THIẾT Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG

GS TS Bùi chí Bửu
Viện Trưởng Viện KHKTNN Miền Nam

            Mô hình cánh đồng mẫu lớn được xem xét dưới nhiều góc cạnh trong sản xuất lúa ở ĐBSCL, với sự lạc quan nhiều hơn sự lo lắng. Nhưng số doanh nghiệp thiết tha thật sự với bà con nông dân không phải là con số lớn. Xuất phát từ một nền sản xuất qui mô nhỏ, trình độ văn hóa của nông dân thấp; chúng ta đã đạt những thắng lợi lớn của nền một nông nghiệp đang phát triển theo chiều rộng, với tư duy đúng đắn của nghị quyết ĐH VII: “Nông nghiệp là mặt trận hàng đầu” thay vì ưu tiên phát triển công nghiệp nặng. Những lúc khó khăn nhất trong lịch sử phát triển, nông nghiệp Việt Nam đã tạo ra những giải pháp ngoạn mục giúp cả nước vượt qua khủng hoảng (1997, 2008, 2009, 2010, 2011).
            Cánh đồng mẫu lớn với mục tiêu rõ ràng và nội dung hành động như hiện nay đã chứng minh nông nghiệp Việt Nam đang chuyển mình sang giai đoạn đoạn “phát triển theo chiều sâu”; tập trung ruộng đất dưới hình thức liên kết giữa nông dân và doanh nghiệp, tạo ra sản phẩm hàng hóa thật sự có chất lượng, hướng đến sự phát triển bền vững, với khẩu hiệu “nông dân nhỏ, cánh đồng lớn”, với giấc mơ “nông sản VN sẽ có thương hiệu mạnh” trên thương trường quốc tế.
Thực tiễn sau 30 năm đổi mới đã chứng minh Việt Nam hoàn toàn đúng khi hoạch định về chiến lược phát triển nông nghiệp trên nền tảng đầu tư thỏa đáng cho thủy lợi. Diện tích lúa có nước tưới trên 80%, cao nhất trong các nước ASEAN. Tổng vốn đầu tư trong thập niên 1990 tăng từ 1.538 tỷ đồng lên 2.506 tỷ đồng / năm. Diện tích lúa có nước tứơi đạt 80% cao nhất trong các nước ASEAN. Kể từ 1975 đến 1995, diện tích lúa có nước tưới ở Việt Nam tăng gấp 3,7 lần, tốc độ tăng cao nhất ở Đông Nam Á, trong cùng thời kỳ. Hiện nay, diện tích được tưới chiếm 85% diện tích canh tác lúa, 1,71 triệu ha được tiêu nước chủ động. Năng suất lúa bình quân năm 2005 là 4.82 t/ha tăng lên 5.32 t/ha trong năm 2010, tăng 10,4%; có nghĩa là mỗi năm tăng trung bình 0,1 tấn  / ha (tăng 2% / năm). Trong khi thế giới đang trong giai đoạn năng suất treo (yield stagnancy) hoặc tăng chậm <1 m.="" n="" p="">
Câu hỏi nhức nhối vẫn đặt ra cho chúng ta là: “tại sao nông dân trồng lúa Việt Nam nghèo?”. Xuất khẩu đứng hạng nhì thế giới, năng suất lúa được xếp vào nhóm cao sản của thế giới. Tại sao phải luôn tranh cãi giá thành sản xuất lúa để lo bài toán thu mua dự trữ thóc, làm sao cho giá cả thị trường tăng trên 30% giá sàn? Cách tính giá thành luôn luôn là đề tài thảo luận chưa có sự đồng thuận cao.
Khi phát triển nông nghiệp theo chiều sâu, có nghĩa là chất lượng nông sản, sức cạnh tranh của hàng hóa phải đạt những chuẩn mực nhất định nào đó; nhưng chúng tôi cho rằng: mục tiêu cuối cùng vẫn là an sinh xã hội và thu nhập cao của nông dân. Mặc dù bình quân lương thực / đầu người đạt cao, nhưng giá trị sản xuất nông nghiệp / ha đạt thấp; đó chính là nguyên nhân làm cho thu nhập bà con nông dân thấp.
Cánh đồng mẫu lớn có khả năng giải quyết vấn đề này không?
Kinh tế hợp tác chưa phát triển khiến cho các nông hộ nhỏ bé bị chia cắt khỏi thông tin thị trường, khả năng cạnh tranh yếu, khả năng tiếp cận thị trường khoa học công nghệ thấp, chịu nhiều thua thiệt trong kinh tế thị trường.
Hãy nhìn nông nghiệp Nhật Bản với qui mô ruộng đất nhỏ hẹp như chúng ta, nhưng nông dân trồng lúa của họ có cuộc sống sung túc không thua kém gì người ở thành thị. Thành công lớn của họ chính là xây dựng kinh tế hợp tác với các hợp tác xã nông công nghiệp thành công. Thái Lan là một nước ở Đông Nam Á, rất chú trọng chính sách phát triển hợp tác xã theo hướng như vậy và họ cũng có những thành công nhất định. Đó là những bài học tốt cho Việt Nam.
Bây giờ, chúng ta đang cố gắng thuyết phục nông dân tập họp lại, thuyết phục doanh nghiệp hãy sẵn sàng giúp nông dân xây dựng những cánh đồng mẫu lớn, bao tiêu sản phẩm, hướng dẫn qui trình canh tác lúa hợp lý; nhưng đây chỉ là một cuộc vận động mang tính chất kêu gọi sự tri ân của doanh nghiệp với bà con nông dân, bởi vì họ đã xuất sắc đạt nhiều thành tựu trong chặng đường đổi mới, nhưng họ vẫn còn nghèo. Đây chưa phải là giải pháp thỏa mãn được điều kiện có và đủ. Thực tế đang có một số cam kết giữa hai bên bị vi phạm.
Tổ chức lại sản xuất trước yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước là yêu cầu bức thiết cho sản xuất lúa ở ĐBSCL. Trình độ thâm canh của nông dân Việt Nam đang được mọi người ngưỡng mộ, nhưng chỉ diễn ra trên cánh đồng nhỏ bé của mình, và đang bị chia cắt bởi thị trường lớn.
Các nông hộ nhỏ bé với tâm lý ngán ngại tham gia vào các tổ chức làm ăn qui mô lớn (vốn có những dấu ấn tiêu cực theo kiểu áp đặt cũ). Họ trở nên bị cô lập và là nạn nhân của biến động thị trường khi có khủng hoảng kinh tế lan rộng, thậm chí chỉ một áp lực nhỏ về giá gạo tại một thị trường nào đó. Họ không thể tự bơi ra biển rộng khi Việt Nam là thành viên của WTO. Cánh đồng mẫu lớn là giải pháp trước mắt. Lâu dài vẫn phải là hợp tác xã nông nghiệp cải tiến với chính sách phát triển rõ ràng.
Chúng ta không thể kêu gọi doanh nghiệp khi đầu tư cho nông nghiệp có xác suất rủi ro cao, hoàn vốn chậm. So sánh nguồn vốn đầu tư FDI và ODA cho nông nghiệp và công nghiệp trong nhiều năm qua ở VN, người ta càng hiểu nông nghiệp không phải là lĩnh vực được doanh nghiệp nước ngoài quan tâm nhiều.
Chúng ta phải tổ chức lại sản xuất theo hướng hợp tác hóa mới có thể phát triển nông nghiệp theo chiều sâu, có qui mô sản xuất lớn, bao gồm cả khâu tồn trữ, chế biến, lưu thông, mở thêm ngành nghề khác trong nông thôn. Mô hình cánh đồng mẫu lớn đang phát huy những giá trị bước đầu của nó, cần có chính sách nhà nước hỗ trợ thích đáng. Đến lúc, chúng ta tích cực nhiều hơn trong cuộc vận động hợp tác hóa, giảm nhiều khâu trung gian trong chuỗi giá trị ngành hàng, để bà con nông dân trồng lúa thực sự có nguồn thu nhập cao, an sinh xã hội được đảm bảo./.




 

Không có nhận xét nào: