Thứ Tư, 15 tháng 5, 2013

ĐỂ “SẢN XUẤT RAU THEO VIETGAP” CÓ GIÁ TRỊ HÀNG HÓA CAO

ĐỂ “SẢN XUẤT RAU THEO VIETGAP” CÓ GIÁ TRỊ HÀNG HÓA CAO

GSTS Nguyễn Văn Luật - Hội Giống Cây trồng Việt Nam

Sản xuất rau theo ViệtGAP, rồi theo GobalGAP là con đường đúng đắn để nâng cao giá trị thương phẩm của rau, nhằm đáp ứng nhu cầu bức bách của thị trường trong và ngoài nước. Để sản xuất rau theo ViệtGAP phát triển bền vững và đạt tiêu chí của rau ViệtGAP tin cậy, cần có  điều kiện quan trọng vào bậc nhất là đảm bảo thu nhập ngày một cao hơn cho người sản xuất rau, ít nhất là không bị thiệt. Có thể có nhiều cách để đạt được tiêu chí ViệtGAP tùy điều kiện cụ thế, trong đó có hai cách cần được quan tâm là: phát triển sản xuất rau bản địa , nhất là loại đặc sản có triển vọng đạt thương hiệu quốc gia, và lựa chọn và áp dụng công nghệ phù hợp trong sản xuất và chế biến, và bảo quản.     

1.PHÁT TRIỂN SẢN XUẤT RAU BẢN ĐỊA
         Nhiều nhà thực vật học cho rằng Việt Nam có khoảng 12.000 loài cây, phần lớn đã được phát hiện và nhận dạng. Nhiều loài hàng ngày được dùng làm rau cỏ và thuốc Nam (Yohitaka Tanaka, Nguyen Van Ke, 2007)
Rau bản địa địa phương cũng có thể phân làm:
(i)    lọai rau hoang dã như  dền gai, rau dền cơm, rau bợ, rau sam, sương sông, lá lốt.. (rau tập tàng) , sống đời, lạc tiên, rau chọai hay rau co, lưỡi mác, rau má.. ;  
(ii)    lọai rau đã được nông hộ trồng phân tán: tía tô, các lọai rau mùi, rau mồng tơi..;
(iii)   lọai được tuyển chọn để phát triển sản xuất hàng hóa tập trung hoặc phân tán trong các VAC, như cúc tần (tần ô, cải cúc), ớt, rau dền, mồng tơi..
(iv)   loại rau đặc sản có triển vọng đạt thương hiệu quốc gia như rau sắng Chùa Hương, hay có tính phổ cập rất rộng, dược tính rất cao như mùng tơi, mơ lông..

     Một khảo sát của chúng tôi ở tỉnh Trà Vinh, Sóc Trăng, và TP Cần Thơ cho thấy:
          Rau hàng năm chiếm: 60%; Rau lưu niên: 40%
          Rau địa phương bản địa: 76%;Rau nhập nội24%

      Giá trị dinh dưỡng trong một số rau ĐPBĐ  và rau nhập nội
                                             Tính trên 100g sản phẩm ăn được
Các lọai rau
Năng lượng
(calo)
Protein
(mg)
Caroten
(mg)
Vitamin C
(mg)
Rau địa phương bản địa
Rau mồng tơi
14
2,8

72
Rau dền
20
2,3
5,6
35
Rau muống
23
3,2
4,4
23
Rau đay
25
2,8
6,1
77
Rau khoai
22
2,6
3,3
11
Kinh giới
23
2,7
5,1
140
Rau răm
31
3,7
4,2
37
Mùi
14
2,6
3,2
250
Ớt
29
1,3
5,5
240
Thì là
23
2,6
3,8
63
Rau nhập
Cải bắp
30
1,8
vết
30
Cải sen
16
1,7
2,3
50
Rau diếp
13
1,2
2,5
30
Củ cải
21
1,5
-
30
Đậu cô ve
26
5,0
0,3
25
(Tính theo tài liệu của Viện dinh dưỡng quốc gia)

Có thể có 10 tiêu chí đánh giá so sánh tổng thể rau ĐPBĐ và nhập nộirau BĐĐP đạt mức cao ở 7 tiêu chí là mức độ phổ biến, thích ứng với BĐKH, giá trị dinh dưỡng, độ an toàn hay độ lành sạch, dược tính, số người sử dụng, và triển vọng sản xuất hàng hóa. Rau nhập nội. như bắp cải, rau diếp, cải xen, suflơ.. chỉ đạt 4 tiêu chí, nhưng là những tiêu chí tạo cho rau nhập có ưu thế trên thị trường, đấy là tiêu chí về mức độ ưa chuộng, giá cả thị trường, hiệu quả kinh tế, và triển vọng sản xuất hàng hóa.
                            
               Bảng 2. So sánh rau địa phương bản địa và nhập nội

Thứ tự
       Tiêu chí
     ĐPBĐ
   Nhập nội
1
Mức độ phổ biến
Cao
Trung bình
2
Tính thích ứng BĐKH
Cao
Thấp
3
Giá trị dinh dưỡng
Cao
Thấp
4
Độ an tòan (lành sạch)
Cao
Thấp
5
Dược tính
Cao
Thấp
6
Số người sử dụng
Cao
Thấp
7
Mức độ ưa  chuộng
Trung bình
Cao
8
Giá cả thị trường
Thấp
Cao
9
Hiệu quả kinh tế
Thấp
Cao
10
Triển vọng  sx hàng hóa
Cao
Cao

Như vậy, vị thế của rau ĐPBĐ  bị lu mờ bởi các tiêu chí về mức độ ưa chuộng và hiệu quả kinh tế thấp, mặc dầu 70% các tiêu chí đếu cao (bảng 2). Bao trùm lên cả, có lẽ là tập quán xã hội. Đã là tập quán xã hội thì có thể  khắc phục  bằng phong trào. Hai cây rau ‘ấn tượng’ được giới thiệu sau :

Rau sắng Chùa Hương
          Rau sắng có tên khoa học là Phyllanthus elegans, Rau sắng và rau ngót cùng họ Thầu dầu (Euphorbiaceacae) .  Rau sắng còn được gọi là rau ngót rừng hay cây mì chính theo cách của người Việt; người Dao gọi là “lai cam”người Mường gọi là  “Tắc sắng”; người Tày người Thái gọi là “pắc van”, tất cả đều có nghĩa là rau ngọt.
Cây rau sắng  mọc tự nhiên trên núi  ở độ cao từ 100 đến 200 m trở lên cao hơn mặt biên, có cây đường kính thân tới 20 – 30cm,  cao đến hàng chục mét, muốn thu họach lá phải trèo lên lấy hoặc cắt bẻ cành cho rơi xuống. Lọai rau “qúy phái”  này còn ít người được thấy và hưởng thụ nếu không sống ở những nơi gần như Chùa Hương, một số nơi ở Hòa BìnhLào CaiHà TâyLạng SơnQuảng Ninh, một số  khu rừng già Trường Sơn.. nhiều nhất là ở Vườn Quốc gia Xuân Sơn và vùng đệm của vườn quốc gia này thuộc tỉnh Phú Thọ.
Hoa của cây rau sắng mọc thành bông trên thân, thường gọi là râu rồng, lấm tấm như hoa ngâu, nấu canh ăn còn ngọt hơn cả lá non. Cây sắng trụi lá vào mùa đông, lại nẩy lộc và ra râu rồng vào mùa xuân. Lá non và lá bánh tẻ thái nhỏ hoặc vò để nấu canh. Lá non bán kèm râu rồng càng có giá. Lá sắng hái mỗi tháng một lần cho đến tháng 6. Cành non và quả giã nhỏ nấu canh cũng được. Rau sắng cũng có lọai mọc trên rừng Trường Sơn.
Rau sắng lấy hoặc mua về được nhặt tách riêng lá và cọng, dùng để nấu canh. Lá sắng xanh thẫm, bóng mỡ màng. Canh rau sắng có thể nấu với cá rô, cá quả, thịt nạc, thịt gà, sườn, giò sống hay tôm nõn… Nước canh sôi, nêm chút muối rồi cho lá rau sắng và các cọng thân đã rửa sạch vào nước. Canh sôi lại là bắc ra ngay, bởi nếu nấu nhừ quá lá rau lại mất vị ngọt. Có kinh nghiệm khi nước  sắp sôi mới rửa rau sắng bỏ vào nồi, nếu rửa trước sớm lá rau sẽ bị “già”  đi.Cây sắng ưa đất ẩm, sống bằng mùn đất do lá cây mục nát tạo ra, thường mọc dưới tán lá của những loại cây khác, không ưa các loại phân bón hóa học. Cây rau sắng  khó trồng do kén đất và nhạy cảm với các phương thức chăm sóc không thích hợp. Có thể được nhân giống bằng hạt, hom rễ; trồng phân tán, trồng xen vào các khu rừng tái sinh hoặc trồng xen với  cây ăn quả .
Hiện nay đã có nhiều nơi trồng thành công, nhờ những dự án bảo tồn và phát triển cây sắng ở Vườn Quốc gia Xuân Sơn thuộc huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ và tại xã Hương Sơn, huyện Mỹ Đức, tỉnh Hà Tây. Trước kia cây sắng chỉ mọc hoang dã và bị người dân khai thác tận thu tận diệt mà không bảo tồn, kém chăm sóc, ít phát triển, nên là một trong những loại cây có nguy cơ tuyệt chủng cao, đã được đưa vào sách đỏ Việt Nam
Cuối mùa đông  cây sắng rụng hết lá già, đến những ngày đầu của mùa xuân, khoảng tháng tháng 2, cây bắt đầu ra những ngọn lá non đầu tiên, và đến
tháng 3 tháng 4 là đỉnh điểm mùa thu hoạch ngọn, lá và cả những chùm hoa. Thường cây sắng có độ tuổi từ 3-4 năm trở lên sẽ bắt đầu được thu hái, nhưng phải vài năm sau cây mới đạt năng suất cao nhất. Khi bị cắt những đọt ngọn, cây sẽ nhanh chóng mọc ra tua tủa những chồi non, nhưng cũng không nên khai thác quá mạnh tay vì cây sẽ còi cọc, thường trong khoảng trên dưới một tháng sau là có thể thu hoạch tiếp đợt mới. Những chùm rồng rồng và quả non cũng được thu hái để chế biến các món ăn. Đến khoảng tháng 6, trên những cây sắng cái quả chín vàng thành chùm lúc lỉu, tròn dài và to như quả nhót, đây cũng là thời điểm đánh dấu mốc hết mùa rau sắng.
Trong 100g rau sắng có khoảng 6,5 - 8,2g protit, 0,23g lysin, 0,19g methionin, 0,08g tryptophan, 0,25g phenylanalin, 0,45g treonin, 0,22g valin, 0,26g leucin và 0,23g isoleucin, 11,5mg vitamin C, 0,6mg caroten .
Theo tài liệu tổng hợp của chúng tôi, thì hàm lượng đạm trong rau sắng, rôi đến rau ngót  đứng đầu các lọai rau ăn lá, hơn cả một số đậu làm rau, và ngang ngửa với cả gạo nếp và tẻ:
Rau sắng (6,5 - 8,2g protit/100g rau); rau ngót (5.3g); rau răm (4,7); rau muống (2,8-3,0); rau đay (2,8); kinh giới (2,7); mùi (2,6); thì là (2,6);  rau dền (2,3); mồng tơi (2,0);  cải bắp (1,8); cải sen (1,7); củ cải (1,5); cà rốt (1,5); hàng lá (1,3); ớt (1,3);..
So sánh với đậu rau: đậu cô ve (5,0); giá đậu nành (5,2); đậu ván tươi (2,5);      
So sánh với ngũ cốc: gạo tẻ (7,5); gạo nếp (8,0); ngô tươi (2,3);..
 Như vậy, giá trị dinh dưỡng và giá trị ẩm thực của rau sắng và rau ngót nếu được duy trì và cải thiện bằng tuyển lựa và tạo chọn giống và kỹ thuật trồng trọt thích hợp thì vừa phát huy được đặc tính hàm lượng đạm cao; vẫn giữ được đặc điểm của rau  nổi trội hơn các lọai lương thực thực phẩm khác về vítmin, chất khóang và chất xơ. Rau sắng sẽ có thể trở thành một lọai thực phẩm chức năng đặc biệt. Bộ độ Trường Sơn hồi chống Mỹ xâm lược đã phơi khô rau sắng để dành làm “mì chính -  bột ngọt” cho món canh rau rừng. Những đề tài/ dự án lọai này trước hết nên giao cho những viện nghiên cứu sâu và chuyên đề, như viện di truyền thực vật, viện rau quả.. Những cơ quan nghiên cứu triển khai ở TƯ và địa phương thích hợp với những dự án bảo tồn vì bảo tồn trong sản xuất và sử dụng là cách bảo tồn tốt nhất, và mở rộng diện tích sản xuất, mới có khoảng vài tỷ đồng.
 Bài thơ của thi sỹ Tản Đà cảm ơn người gửi tặng mớ rau sắng như sau:
Mấy lời cảm tạ tri âm,
Đồng bang là nghĩa, đồng tâm là tình.
Đường xa rau vẫn còn xanh,
Tấm lòng thơm thảo, bát canh ngọt ngào.
Yêu nhau xa cách càng yêu,
Dẫu rằng suông nhạt mà nhiều chứa chan. (1922)
Rau mồng tơi
            Còn có tên là Mùng tơi tên Latin là Basella rubra L.
           Trong Nam mồng tơi trồng được quanh năm. Trồng phân tán cũng có thể cho năng suất cao. Ở ven đô  Trà Vinh và  vườn trường Ô Môn, 1 gia đình đã có  trồng ven bờ rào cả xóm có 5 – 10 hộ có rau ăn thường xuyên. Kỹ thuật trồng phân tán rất dễ, chỉ cần vằm nhỏ đất từng hốc, bỏ hạt hoặc trồng cây con là mọc được, không cần chăm bón gì, chỉ cần tưới nước cho đến lúc cây mọc, giữ ẩm đến lúc cây leo là được. Trồng lúc nào cũng được.
            Trồng tập trung làm rau hàng hóa có quy trình sau:
1./ Thời vụ:
Quanh  năm, bố trí vào thời gian vài ba tháng luân canh với các vụ khác là có thể trồng thu hoạch  ba bốn lứa.
 2./ Chuẩn bị ruộng
Gồm vệ sinh đồng ruộng, dọn sạch tàn dư thực vật, cỏ dại. Cần cày bừa kỹ xáo xới cho đất tơi xốp, lên luống rộng 1,2 m đến 1,5 m, mặt luống rộng 1,0 – 1,2 m, rãnh 20 – 25cm, cao 20cm. Kích thước xê dịch tùy theo tập quán và điều kiện ruộng đất, như vùng đất giồng ven biển dân Khmer lên luống rất đẹp, mặt luống rộng hơn và rãnh sâu hơn, có nơi làm luống chìm để giữ ẩm; vùng đất thịt thì luống hẹp, rãnh nông
 3./ Giống và cách trồng  
Có 3 giống: lá nhỏm lá tía và lá lớn. Lượng hạt gieo 20-21 kg/ha. Gieo theo hàng rồi tỉa ra trồng. Khoảng cách 20 x 25cm, 16 – 17 vạn cây/ ha. Trồng độ 1 tháng thì thu hoạch, cắt bán để lại 3-  5 cm gốc chu vụ sau. Sau trồng khoảng 35 ngày thì thu hoạch, sau đó cứ vài tuần lễ thu tiếp.
Nên giảm phân NPK, và thay phân chuồng bằng phân hữu cơ khác, bón tăng lượng P và K thì giảm giảm được N trong tỷ lệ: 00N- 60 P2O5- 60 K2O, hay 60N- 60 P2O5- 60 K2O. Tận dụng phân bò, phân gà sẵn có ở địa phương
Mồng tơi rất dễ trồng, bò lan leo cuốn rất tốt. Trồng xen trong VAC, trồng trong chậu cho leo giàn, leo cây cao, leo theo các khuôn hình kết hợp trang trí đẹp mắt. Trồng phân tán nói chung không có vấn đề về sâu bệnh.
Tóm tắt những bệnh mà mồng tơi có thể trừ theo báo KH và ĐS như sau
         Thanh nhiệt giải độc: Có nhiều cách từ đơn giản đến phức tạp. Ta đã có những cách thông dụng như canh rau mồng tơi, hoặc kèm rau đay, mướp, cua, tôm... ăn với cà pháo muối giòn thì ngon tuyệt, lại mát ruột ngon miệng, ăn được nhiều cơm mặc cho trời nóng bức.
         Tráng dương, trị "yếu sinh lý": Rau mồng tơi, rau ngót, rau má. Mỗi thứ 1 nắm, 1 bộ lòng gà hay vịt, đủ cho 1 người lớn ăn 1 bữa. Nấu canh, ăn vã hoặc ăn với cơm. Tuần ăn vài lần. Nếu uống kèm nước cơm rượu, hiệu quả càng lớn. nấu với tôm: Tôm tươi bóc vỏ bỏ đầu ướp hành muối xào săn, chế nước dùng sôi cho rau mồng tơi sôi lại. Tác dụng bổ dương cường thận.
          Chữa di mộng tinh: Rau mồng tơi, đậu nành, lạc. Mỗi thứ 1 nắm, nấu với 1-2kg xương lợn (xương ống tốt hơn), hầm kỹ xương lợn trong nồi áp suất rồi mới cho đậu lạc và cuối cùng cho rau mồng tơi. Có thể cho thêm tiêu bột, nước tương, nước mắm. Ăn nóng, ăn xong uống nước nóng.
          Chữa hoạt tinh: Trường hợp tinh xuất quá nhanh và sau giao hợp thường bị mệt mỏi đuối sức, xanh xao. Rau mồng tơi 1 nắm, rau dền tía 1 nắm nấu với 1 đôi bầu dục để nguyên lớp mỡ và vỏ bọc (không bóc vỏ) cho gia vị. Ăn nóng. Ăn xong uống nước trà gừng nóng sẽ tăng hiệu quả. Trước khi đi ngủ ăn 1 thìa vừng đen (đã rang thơm) nhai kỹ nhuyễn rồi nuốt. Xong uống 1 chén nước cơm rượu, càng có hiệu quả cao hơn.
        Hoạt trường thanh nhiệt dưỡng âm giúp da tươi nhuận: Rau mồng tơi luộc chấm hoặc trộn vừng đen đã rang tán bột.
      Chữa đầy bụng: Rau mồng tơi 50g, rau đay 50g, khoai sọ 1 củ (bóc vỏ thái nhỏ) nấu canh ăn vài ba ngày. Hoặc dùng 4 loại rau sau đây với lượng bằng nhau nấu canh: mồng tơi, đay, rau khoai, rau má.
       Chữa táo bón lâu ngày gây thoát giang: Lá mồng tơi, lá vông non mỗi thứ 30g, rễ đinh lăng 20g, củ mài 12g (thái mỏng sao vàng), vừng đen 30g (rang nổ) sắc với 600ml nước còn 300ml. Người lớn chia 2 lần, trẻ em tùy tuổi dùng ít hơn.
        Chữa khí hư, suy nhược: Gà ác 1 con, lá mồng tơi 1 nắm, đậu đen 1 nắm, ninh nhừ ăn nóng cả nước và cái. Tuần ăn 1-2 lần cách nhau 3-6 ngày. Khi thấy có kết quả cho thêm một nắm đậu nành, 2 nắm lạc. Món này giúp chị em bồi dưỡng sau đẻ và làm cho da hồng hào, tóc đen mượt. Người bị đau dạ dày, ợ chua ăn món này cũng tốt.
      Chữa tiểu tiện buốt nóng: Lá mồng tơi 1 nắm, giã nhuyễn, lấy nước cốt pha thêm nước, chắt lấy nước, uống nóng với ít hạt muối. Bã đắp vùng bàng quang.
        Nhức đầu do đi nắng: Lá mồng tơi giã nhuyễn lấy nước uống, bã đắp vào 2 bên thái dương băng lại.         .
        Chữa đầu vú sưng, nứt, trĩ, mụn nhọt, bỏng: Lá mồng tơi rửa sạch giã nhuyễn với ít muối đắp lên chỗ tổn thương. Da mặt khô nhăn nẻ, tay chân bị cước cũng có thể dùng lá mồng tơi như vậy. Khi dùng rau mồng tơi phải rửa sạcg  như các rau khác. (theo KH và ĐS)

2. CHỌN VÀ ÁP DỤNG CÔNG NGHỆ SẢN XUẤT RAU
   Cũng như với sản xuất lúa, công nghệ sản xuất rau có thể chia làm ba loại chính: công nghệ truyền thống, công nghệ công nghiệp và công nghệ cao hay hậu công nghiệp.
Công nghệ sản xuất rau truyền thống phát triển từ xa xưa, từ nền kinh tế hái lượm, ta có sản phẩm rau hữu cơ, vì hái lượm trong tự nhiên, chẳng có nhà máy, có khu công nghiệp nào ảnh hưởng tới. Khi trồng thì không có dùng năng lượng hóa thạch từ dầu hỏa để sản xuất rau, hay dùng phân hóa học, thuốc sát trùng, xăng dầu chạy máy. Tuy nhiên, với cách sản xuất này không có đủ rau hàng hóa đáp ứng yêu cầu của thị trường, mà chủ yếu nhằm tự cấp tự túc, và đáp ứng cho những yêu cầu của các chợ địa phương, như chợ làng/ xã, chợ huyện..
   Ngày nay, công nghệ sản xuất rau của ta đã công nghiệp hóa từng khâu, hoặc toàn bộ quá trình canh tác cả vụ, tùy theo điều kiện sản xuất và loài/ giống rau. Ảnh hưởng tích cực của công nghiệp đến tăng sản lượng rau hàng hóa ngày một nhiều.  Đồng thời, ngày một nẩy sinh vấn đề rau không an toàn, do có hàm lượng chất độc hại vượt mức an toàn, như nitrat, thuốc trừ sâu bệnh, kể cả những chất độc hại từ công nghiệp thải ra. Những hoạt động chuyển giao công nghệ, như những đợt tập huấn khuyến nông, hội thảo khuyến nông về sản xuất rau theo ViệtGAP góp phần nâng cao dân trí cũng như cải tiến kỹ thuật sản xuất thế  nào để được rau an tòan. Thuật ngữ  NGON LÀNH   mà ông cha ta đã dùng là  chình xác hơn, dân giã hơn rau an toàn.
    Nói chung, công nghệ sản xuất rau trong sản xuất hiện nay bao gồm cả ba loại như đã nói. Tùy nơi, tùy lúc, tùy điều kiện mà công nghệ chủ lực là công nghệ sản xuất rau công nghiệp, hay truyền thống, hoặc công nghệ cao.    
     Công nghiệp hóa sản xuất rau hành hóa, đưa công nghệ cao vào kỹ thuật canh tác, chế biến và bảo quản hợp lý theo hướng  gúp người sản xuất rau tăng sản lượng, giảm giá thành, giữ rau ngon lành, và có giá trị hành hóa cao.
     Việc tạo chọn giống rau  mới cần được định hướng với từng loại rau bản địa . Như rau sắng Chùa Hương đặc sản, hoặc đã được dùng rộng rãi, dùng từ lâu, như rau ngót cùng họ với rau sắng, rau mùng tơi..Bằng lai tạo truyền thống hay tạo giống bằng công  nghệ cao (nuôi cấy mô, nuôi cấy túi phấn, kỹ thuật di truyền..), hoặc kết hợp các phương pháp như vẫn làm với lúa, với ngô, chúng ta có thể được giống rau sắng có nguồn gốc từ vùng Chùa Hương, nhưng làm được ở nhiều vùng sinh thái, mặc dầu có thể một số chỉ tiêu chất lượng có thể  giảm. Bằng các phương pháp tạo giống khác nhau, chúng ta có thể có giống rau ngót kháng sâu, giống mùng tơi có chất lượng cao hơn và kháng sâu khi trồng tập trung, trồng liên tiếp..
Giới thiệu Mô HÌNH NÔNG NGHIỆP THẲNG ĐỨNG (Vertical Farming), một mô hình của nông nghiệp công nghệ cao ở đô thi trồng rau nuôi cá. 
           Ở Hà Nội và TP Hồ Chí Minh  đã có nhiều căn hộ và cả biệt thự tự trồng rau an tòan trên gác thượng, và cả trên hành lang để gia đình không phải ăn rau ngộ độc. Trong thời bão giá này, nhiều gia đình ở đô thị đua nhau sản xuất rau tự túc, dùng hộp xốp bỏ đất vào trồng rau.   Đã có sáng kiến làm những tấm giá thể dựng trên tường để trồng rau an tòan không tốn đất.
Xin giới thiểu một mô hình ở nước ngòai.
 Nhà máy cao 4 tầng, trị giá 4 triệu đô la Mỹ, diện tích canh tác rộng 2,787 ha, đã trồng xà lách, nuôi 1.400 cá rô phi.  Nơi nuôi  cá và vườn rau nối nhau qua một hệ thống nước tuần hoàn 36.000 lít nước: nước thải từ cá hồ nuôi cá rô phi, giàu chất dinh dưỡng, nhất là chất đạm, chảy vào những bồn  để tưới tiêu và bón phân cho cải xà lách. Rễ cây cây trồng sẽ lọc nuớc trước khi nước trở lại với cá. Tác giả Edel và các sinh viên cộng tác ở Viện Kỷ thuật Illinois, cũng đang xây cất một thiết bị tiêu hủy, sẽ dùng để chứa các rau ăn thừa và phế thải cá, để sản xuất phân bón và khí sinh học (biogas) chạy hệ thống điện công suất 280 Kw làm hâm nóng và làm nguội. Nhà Máy sẽ có sản phẩm đầu tiên mùa thu năm nay, gồm có rau xanh, nấm ăn và cá rô phi cho chợ nông sản.
Những nông trang nhiều tầng, kích thước nhỏ hơn đang phát triển ở Anh Quốc và ở bang Wisconsin Hoa Kỳ, và một tổ chức tên gọi là Sức Mạnh Đang Lên (Growing Power), hy vọng sẽ khởi đầu dự án 5 tầng ở thành phố Milvaukee, trong 18 tháng tới. Những dự án này làm ra những thực phẩm tươi cho cư dân đô thị và có cơ giúp giảm bớt phí tổn và năng lượng chuyên chở sản phẩm. Stan Cox, nhà khảo cứu di truyền học cây cối ở Viện Đất Đai (Land Institute), bang Kansas, nhấn mạnh là trong khi rau ăn lá mọc tốt trong nhà, các thực phẩm chánh như là lúa mì và bắp (ngô) lại cần nhiều năng lượng ánh sáng hơn thì trồng ngòai đồng. Nhưng Dickson Despommier, nhà sinh thái học viện đại học Columbia nói rằng các dự án kích thước lớn vẫn còn nhiều ảnh hưởng tốt: ông tính ra là một cao ốc 50 tầng,  chiếm hẳn một khu phố ở NewYork, có thể nuôi đủ 50.000 người.  (theo tài liệu của Gs Tôn Thất Trình, 6/2011)

Tài liệu tham khảo
Nguyen Van Luat, Nguyen Duc Loc, 2007 Indigenous Vegetables and medicinal plants in The Mekong Delta, reported in Workshop “Role of Women in The Safe Production, Promotion and Utilizationon Indigenous Vegetables in Vietnam, organized by Central Women Union  of Vietnam and ACIAR (Austr. Centr. Intern. Research). 7-8/ May/ 2007. Horrison Hotel, 40 Cattinh, Hanoi
Yoshitaka Tanaka, Nguyen Van Ke, 2007 Edible Wild Plants  of Vietnam. The Bountiful  Garden. Orchid Press. Printed in Thailand.
Nguyễn Văn Luật 2011. Nghiên cứu một số giải pháp phát triển vườn rau cây thuốc bản địa dân dã theo hướng sản xuất rau dược tính an toàn hàng hóa ở ĐBSCL. Đề tài cấp Bộ Nông nghiệp vố vay ADB, đã được nghiệm thu.

Không có nhận xét nào: